Thanh Niên ngày 31.7.2012 đăng tin chính quyền Trung Quốc cấm du khách 6 nước: Anh, Na Uy, Áo, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam đến Tây Tạng mà không cho biết lý do vì sao đưa ra lệnh cấm này.
Câu hỏi được đặt ra là, trên thế giới có hàng trăm quốc gia và vùng
lãnh thổ, nhưng vì sao chỉ có 6 nước nêu trên bị cấm, và cấm đến Tây
Tạng chứ không một vùng đất nào khác trên lãnh thổ rộng mênh mông của
Trung Quốc?
Tây Tạng là một vùng đất “nhạy cảm” xét về lịch sử trong quá khứ và
cả những gì diễn ra hiện nay. Trung Quốc thế kỷ 21 có khá nhiều “vùng
nhạy cảm” chứ không riêng gì Tây Tạng. Tân Cương với thủ phủ Urumqui là
một ví dụ. Những cuộc đụng độ sắc tộc nảy lửa diễn ra giữa cư dân bản xứ
theo đạo Hồi với người Hán ở Urumqui trước đây cũng khiến cho chính
quyền Trung Quốc ra quyết định cấm du khách bén mảng đến vùng đất này,
nhất là nhà báo. Tôi chưa có dịp đến Tân Cương, nhưng Tây Tạng thì có.
Bất kể du khách vào Tây Tạng bằng đường nào cũng đều phải có giấy phép
đặc biệt do cơ quan chuyên trách ở Bắc Kinh cấp. Nếu một người ngoại
quốc vào được Tây Tạng mà chưa có giấy phép, khi bị phát hiện sẽ gặp rắc
rối to, thậm chí bị coi là gián điệp. Tây Tạng vốn là vùng đất Phật mà
nay ra nông nỗi như vậy há phải có nguyên nhân?
Ngày 25.7.2012, TS Mai Hồng - nguyên Trưởng phòng Tư liệu thuộc Viện
Hán Nôm đã tặng cho Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ
xuất bản ở Thượng Hải năm 1904 và tái bản 1910 dưới triều đại nhà
Thanh. Tấm bản đồ ấy chỉ rõ: cực nam đất nước Trung Hoa thời bấy giờ là
Nhai Châu, một địa danh thuộc đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông. Thế rồi một ngày nọ,
Trung Quốc trưng ra tấm bản đồ lạ hoắc có 9 đoạn bao gần hết biển Đông,
còn gọi là đường lưỡi bò, “liếm” luôn 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chuyện chưa dừng lại ở đó. Căn cứ vào những tấm bản đồ địa chính trị
xuất bản vào đời nhà Thanh đầu thế kỷ 20 ở Trung Hoa, Tây Tạng với thủ
phủ Lhasa vẫn còn là một quốc gia độc lập
Một góc thủ phủ Lhasa của Tây Tạng - Ảnh: Đoàn Xuân Hải
|
Nguyện cầu trước cung điện Potala - Ảnh: Đoàn Xuân Hải
|
Nỗi đau Lhasa
Ngày 22.2.1940, cậu bé 5 tuổi tên Tenzin Gyatso xuất thân trong một
gia đình nông dân miền bắc Tây Tạng - hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma thứ
13, đã được tôn lên ngôi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 trong một nghi thức trang
trọng ngay tại thánh địa Lhasa. Tây Tạng lúc ấy chịu ảnh hưởng của đế
quốc Anh, đang thâu tóm một vùng rộng lớn bao gồm cả Ấn Độ, Nepal, Butan
và Miến Điện (Myanmar) - những quốc gia sát nách Tây Tạng. Năm 1947, Ấn
Độ tuyên bố độc lập, thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Anh. Kể từ
đây, người Anh mất dần ảnh hưởng ở Tây Tạng. Thời điểm này cũng bước vào
giai đoạn cuối của cuộc nội chiến Trung Hoa giữa Mao Trạch Đông và
Tưởng Giới Thạch. Năm 1949, Mao Trạch Đông giải phóng Trung Hoa lục địa,
đuổi Quốc dân đảng và Tưởng Giới Thạch ra đảo Đài Loan cho đến tận ngày
nay. Theo quan điểm của chính quyền Trung Quốc hiện nay, Đài Loan là
“vùng đất không thể tách rời” đối với Trung Hoa lục địa. Theo lịch sử
địa chính trị thì Đài Loan thuộc Trung Hoa từ thời xa xưa, vấn đề ở chỗ
“sáp nhập” theo cách nào mà thôi. Thế còn Tây Tạng?
Tháng 10.1950 tức là chỉ mới 1 năm sau khi giải phóng Trung Hoa lục
địa, 80.000 binh lính Trung Quốc bắt đầu tràn qua và chỉ đúng 1 năm sau,
tháng 10.1951, Mao Trạch Đông đã kiểm soát thủ phủ Lhasa - trái tim của
Tây Tạng. Trước tình cảnh đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 vẫn theo đuổi chính
sách biến Tây Tạng thành vùng đất trung lập nhưng có vẻ khó thành hiện
thực. Năm 1954, Đạt Lai Lạt Ma thân chinh đến Bắc Kinh để diện kiến lãnh
tụ Trung Quốc Mao Trạch Đông. Ngài lưu trú ở Bắc Kinh cả tháng trời để
tìm kiếm một nền hòa bình lâu dài cho vùng đất Tây Tạng thời hiện đại
vốn xa lạ với chuyện binh đao, giết chóc.
Chuyến đi ấy của vị lãnh tụ tinh thần Tây Tạng chẳng hứa hẹn điều gì
sáng sủa cho số phận của vùng cao nguyên lạnh giá. Đạt Lai Lạt Ma về đến
Tây Tạng với tâm trạng nặng trĩu, bất an vì lúc này người ta có thể
ngửi thấy “mùi chiến tranh” phảng phất khắp thủ phủ Lhasa. Và chuyện gì
đến cũng đã đến. Tháng 3.1959, binh lính Trung Quốc với số đông áp đảo
đã đồng loạt nổ súng và làm chủ hoàn toàn Lhasa trước sự kháng cự yếu ớt
của binh sĩ “nghiệp dư” Tây Tạng. Trước khi chiến sự nổ ra, Đạt Lai Lạt
Ma 14 đã kịp cải trang và cùng đoàn tùy tùng rời khỏi Lhasa. Sau nửa
tháng di chuyển bằng đường bộ băng qua dãy Hy Mã Lạp Sơn, ngài đến
Dharamsala, vùng đông - bắc Ấn Độ sống lưu vong cho đến ngày nay. Có
người gọi Dharamsala là “Little Lhasa”.
Đoàn Xuân Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét